Giám định một cụm từ dường như khá xa lạ với nhiều người, bởi lẽ trong nhiều hoàn cảnh giám định sẽ được hiểu theo nhiều cách hiểu khác nhau. Dưới góc độ pháp luật, thì giám định sẽ có các đặc điểm và sẽ được giao cho cơ quan chức năng thực hiện theo đúng thẩm quyền được giao. Người giám định là người có kiến thức chuyên môn về lĩnh vực cần giám định, được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trưng cầu. Vậy cụ thể, Các trường hợp phải giám định tâm thần gồm những trường hợp nào? Quy định về thời hạn thực hiện giám định tâm thần là bao lâu? Ai có quyền yêu cầu giám định tâm thần? Tất cả những câu hỏi này sẽ được Luật sư Hồ Chí Minh giải đáp thông qua bài viết dưới đây, mời quý bạn đọc cùng tham khảo nhé. Mời quý bạn đọc cùng theo dõi nhé.
Căn cứ pháp lý
- Bộ luật Tố tụng hình sự 2015
Ai có quyền yêu cầu giám định tâm thần?
Hiện, pháp luật không nêu rõ thế nào là trưng cầu giám định, tuy nhiên có thể hiểu trưng cầu giám định là hoạt động tố tụng hình sự. Người trưng cầu giám định bao gồm cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Theo đó, người tiến hành tố tụng sẽ ra các quyết định yêu cầu những người có kiến thức chuyên môn về các lĩnh vực khoa học, kĩ thuật, công nghệ… theo quy định của pháp luật để nghiên cứu, kết luận về những vấn đề cần làm rõ trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự.
Ngoài ra, Điều 207 Bộ luật Tố tụng hình sự cũng quy định đương sự hoặc người đại diện của đương sự có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trưng cầu giám định những vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ (trừ trường hợp việc giám định liên quan đến việc xác định trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội).
Cơ quan tiến hành tố tụng phải xem xét, ra quyết định trưng cầu giám định trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày có yêu cầu. Trường hợp không chấp nhận đề nghị thì thông báo cho người đã đề nghị giám định biết bằng văn bản và nêu rõ lý do.
Hết thời hạn này hoặc kể từ ngày nhận được thông báo từ chối trưng cầu giám định, người đề nghị giám định có quyền tự mình yêu cầu giám định.
Các trường hợp phải giám định tâm thần
Giám định lại là hoạt động giám định được tiến hành theo quyết định trưng cầu của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự về vấn đề đã được giám định khi có kết quả giám định trước hoặc có mâu thuẫn trong các kết luận giám định. Người giám định là người có kiến thức, kinh nghiệm cần thiết theo quy định của pháp luật về lĩnh vực có đối tượng cần giám định mà Tòa án trưng cầu giám định hoặc được đương sự yêu cầu giám định.
Theo Điều 206 Bộ luật Tố tụng hình sự, bắt buộc phải trưng cầu giám định khi cần xác định:
– Tình trạng tâm thần của người bị buộc tội khi có sự nghi ngờ về năng lực trách nhiệm hình sự của họ;
– Tình trạng tâm thần của người làm chứng hoặc bị hại khi có sự nghi ngờ về khả năng nhận thức, khả năng khai báo đúng đắn về những tình tiết của vụ án;
– Tuổi của bị can, bị cáo, bị hại nếu việc đó có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án và không có tài liệu để xác định chính xác tuổi của họ hoặc có nghi ngờ về tính xác thực của những tài liệu đó;
– Nguyên nhân tử vong;
– Tính chất thương tích, mức độ tổn hại sức khoẻ hoặc khả năng lao động;
– Vũ khí quân dụng, vật liệu nổ, chất ma tuý, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, tiền giả, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, đồ cổ;
– Mức độ ô nhiễm môi trường.
Như vậy, khi cần xác định một trong các vấn đề nêu trên, cơ quan tiến hành tố tụng bắt bộc phải thực hiện trưng cầu giám định.
Ngoài những trường hợp bắt buộc nêu trên, việc thực hiện trưng cầu giám định còn được thực hiện khi xét thấy cần thiết.
Các trường hợp phải giám định đặc biệt và giám định lại
Kết quả của giám định tư pháp là một trong những căn cứ pháp lý quan trọng để giải quyết vụ án hình sự. Vì vậy, hoạt động giám định phải đảm bảo diễn ra một cách khách quan, chính xác dưới sự giám sát của hội đồng giám định. Quá trình thực hiện giám định tư pháp phải được ghi lại bằng văn bản. Tuy nhiên, vì những lý do khác nhau, không ít trường hợp sau khi có kết luận giám định cơ quan, người tiến hành tố tụng vẫn ra quyết định giám định bổ sung, giám định lại.
Các trường hợp phải giám định đặc biệt và giám định lại như sau:
Giám định hình sự lại
Tại Điều 211 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định về giám định lại như sau:
– Việc giám định lại được thực hiện khi có nghi ngờ kết luận giám định lần đầu không chính xác. Việc giám định lại phải do người giám định khác thực hiện.
– Cơ quan trưng cầu giám định tự mình hoặc theo đề nghị của người tham gia tố tụng quyết định việc trưng cầu giám định lại.
Trường hợp người trưng cầu giám định không chấp nhận yêu cầu giám định lại thì phải thông báo cho người đề nghị giám định bằng văn bản và nêu rõ lý do.
– Trường hợp có sự khác nhau giữa kết luận giám định lần đầu và kết luận giám định lại về cùng một nội dung giám định thì việc giám định lại lần thứ hai do người trưng cầu giám định quyết định.
Việc giám định lại lần thứ hai phải do Hội đồng giám định thực hiện theo quy định của Luật giám định tư pháp.
Giám định hình sự lại trong trường hợp đặc biệt
Tại Điều 212 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định về việc giám định lại trong trường hợp đặc biệt như sau:
Trường hợp đặc biệt, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định việc giám định lại sau khi đã có kết luận của Hội đồng giám định.
Việc giám định lại trong trường hợp đặc biệt phải do Hội đồng mới thực hiện, những người đã tham gia giám định trước đó không được giám định lại. Kết luận giám định lại trong trường hợp này được sử dụng để giải quyết vụ án.
Quy định về thời hạn thực hiện giám định tâm thần là bao lâu?
Giám định trong hoạt động tố tụng là việc người giám định sử dụng các kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để kết luận về chuyên môn những vấn đề có liên quan đến hoạt động giải quyết vụ việc dân sự theo trưng cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng hoặc theo yêu cầu của người yêu cầu giám định, theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp nếu xét thấy kết luận giám định không đầy đủ, không rõ ràng hoặc có dấu hiệu mờ ám, vi phạm pháp luật thì Tòa án có thể yêu cầu người giám định giải thích kết luận giám định hoặc triệu tập người đó đến phiên tòa, phiên hòa đến hỏi những nội dung cần thiết.
Sau 7 ngày từ khi nhận được đơn yêu cầu giám định tâm thần cơ quan có thẩm quyền ra quyết định giám định hoặc không giám định và có thông báo gửi đến người làm đơn.
Trường hợp cơ quan có thẩm quyền chấp thuận việc giám định tâm thần thì căn cứ Điều 208 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định thời hạn giám định như sau:
* Thời hạn giám định đối với trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định:
– Không quá 03 tháng đối với trường hợp tình trạng tâm thần của người bị buộc tội khi có sự nghi ngờ về năng lực trách nhiệm hình sự của họ.
– Không quá 01 tháng đối với trường hợp xác định nguyên nhân chết người và trường hợp mức độ ô nhiễm môi trường.
– Không quá 09 ngày đối với các trường hợp tuổi của bị can, bị cáo, bị hại nếu việc đó có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án, trường hợp tính chất thương tích, mức độ tổn hại sức khỏe hoặc khả năng lao động và trường hợp chất ma tuý, vũ khí quân dụng, vật liệu nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, tiền giả, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, đồ cổ.
* Thời hạn giám định đối với các trường hợp khác thực hiện theo quyết định trưng cầu giám định.
* Trường hợp việc giám định không thể tiến hành trong thời hạn quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 208 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
Thì tổ chức, cá nhân tiến hành giám định phải kịp thời thông báo bằng văn bản, nêu rõ lý do cho cơ quan trưng cầu, người yêu cầu giám định.
Đồng thời, thời hạn giám định quy định này cũng áp dụng đối với trường hợp giám định bổ sung, giám định lại.
Như vậy, trường hợp tình trạng tâm thần của người bị buộc tội khi có sự nghi ngờ về năng lực trách nhiệm hình sự của họ thì người đại diện, người thân và cơ quan tiến hành tố tụng có quyền yêu cầu giám định tâm thần.
Mời bạn xem thêm
- Mẫu quyết định chấm dứt hợp đồng lao động tại Hồ Chí Minh
- Sử dụng biển số xe giả bị xử lý như thế nào?
- Thủ tục nhận tiền hỗ trợ cho lao động mất việc tại Hồ Chí Minh
Thông tin liên hệ
Vấn đề “Các trường hợp phải giám định tâm thần“ đã được Luật sư Hồ Chí Minh giải đáp thắc mắc ở bên trên. Với hệ thống công ty Luật sư X chuyên cung cấp dịch vụ pháp lý trên toàn quốc. Chúng tôi sẽ giải đáp mọi thắc mắc của quý khách hàng liên quan tới mục đích sử dụng đất. Với đội ngũ luật sư, chuyên viên, chuyên gia dày dặn kinh nghiệm, chúng tôi sẽ giúp quý khách giải quyết vấn đề một cách nhanh chóng, thuận tiện, tiết kiệm chi phí và ít đi lại. Chi tiết vui lòng liên hệ tới hotline: 0833.102.102
Câu hỏi thường gặp
Tại Điều 209 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định về tiến hành giám định như sau:
– Việc giám định có thể tiến hành tại cơ quan giám định hoặc tại nơi tiến hành điều tra vụ án ngay sau khi có quyết định trưng cầu, yêu cầu giám định.
Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, người yêu cầu giám định có thể tham dự giám định nhưng phải báo trước cho người giám định biết.
– Việc giám định do cá nhân hoặc do tập thể thực hiện.
Tại Điều 210 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định về việc giám định bổ sung như sau:
– Việc giám định bổ sung được tiến hành trong trường hợp:
+ Nội dung kết luận giám định chưa rõ, chưa đầy đủ;
+ Khi phát sinh vấn đề mới cần phải giám định liên quan đến tình tiết của vụ án đã có kết luận giám định trước đó.
– Việc giám định bổ sung có thể do tổ chức, cá nhân đã giám định hoặc tổ chức, cá nhân khác thực hiện.
– Việc trưng cầu, yêu cầu giám định bổ sung được thực hiện như giám định lần đầu.