Bồi thường thiệt hại là một trong những chế định quan trọng theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015. Đây là một loại trách nhiệm dân sự nhằm buộc bên gây thiệt hại phải khắc phục hậu quả bằng cách bồi thường thiệt hại về tài sản hoặc tinh thần cho bên bị thiệt hại. Trong các hình thức trách nhiệm dân sự có trong hợp đồng thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại là hình thức phổ biến nhất. Trên thực tế, hành vi ngoài trách nhiệm xảy ra rất phổ biến nhưng nhiều chủ thể vì nhiều lý do khác nhau mà không thể bồi thường như mức ban đầu. Vậy Điều kiện để được giảm mức bồi thường thiệt hại là gì? Hãy cùng tìm hiểu qua bài viết dưới đây nhé.
Căn cứ pháp lý
- Bộ Luật dân sự 2015
Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
Về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại được quy định tại Điều 584 Bộ luật Dân sự 2015 quy định như sau:
- Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
- Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.
- Trường hợp tài sản gây thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp thiệt hại phát sinh theo quy định tại khoản 2 Điều này.
Điều kiện để được giảm mức bồi thường thiệt hại
Các bên thoả thuận
Pháp luật dân sự luôn tôn trọng và ưu tiên về quyền tự do thỏa thuận và thiện chí của các bên trong giao dịch, nếu như thỏa thuận đó không trái với các quy định của pháp luật. Bởi vậy cho nên về nguyên tắc áp dụng đối với việc giảm mức bồi thường thiệt hại trước hết cũng sẽ theo ý chí, sự tự nguyện của các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường.
Theo đó thì Tòa án có thể căn cứ vào sự tự nguyện thỏa thuận của chính bản thân người bị thiệt hại với những người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại để ấn định về mức bồi thường thấp hơn số thiệt hại do người đó gây ra.
Thực hiện công việc không có uỷ quyền
Tại khoản 2 của Điều 577 Bộ Luật Dân sự 2015 có quy định nếu như người thực hiện công việc không có ủy quyền do lỗi vô ý mà gây hại trong khi thực hiện các công việc thì căn cứ vào hoàn cảnh đảm nhận các công việc người đó thì có thể được giảm mức bồi thường.
Việc thực hiện công việc không có uỷ quyền xuất phát từ sự tự nguyện của một bên, tuy vậy sự tự nguyện này sẽ cần phải tuân theo quy định của pháp luật. Trường hợp bên thực hiện các công việc không có uỷ quyền gây ra các thiệt hại do lỗi cố ý thì họ sẽ phải tự chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà mình gây ra đối với bên mà có công việc được thực hiện. Trách nhiệm bồi thường được đặt ra khi mà có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại, tuy nhiên sẽ căn cứ vào mức độ lỗi, bên gây thiệt hại sẽ có thể được giảm mức bồi thường đối với những thiệt hại mà mình gây ra. Theo đó, trong trường hợp mà người thực hiện công việc không có uỷ quyền do lỗi vô ý mà gây ra thiệt hại trong khi thực hiện các công việc thì căn cứ vào hoàn cảnh đảm nhận công việc, người đó có thể được giảm mức bồi thường.
Hợp đồng mua bán tài sản
Theo quy định tại khoản 2 của Điều 449 BLDS 2015 quy định về mức bồi thường thiệt hại trong thời hạn bảo hành thì bên bán không sẽ phải bồi thường thiệt hại nếu như chứng minh được các thiệt hại xảy ra là do lỗi của bên mua. Bên bán sẽ được giảm mức bồi thường thiệt hại nếu như bên mua không áp dụng các biện pháp cần thiết mà trong khả năng cho phép nhằm để ngăn chặn, hạn chế các thiệt hại. Theo quy định này thì nếu như sản phẩm mua bán mà có khuyết tật nhưng bên mua lại không chứng minh được các thiệt hại hoặc chứng minh được thiệt hại nhưng lại không đủ các điều kiện cần thiết khác như là mối quan hệ nhân quả, lỗi,…thì bên bán sẽ không phải bồi thường thiệt hại. Ngoài ra, bên bán cũng sẽ không phải bồi thường thiệt hại hoặc họ được giảm mức bồi thường nếu như thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của bên mua hoặc là bên mua không áp dụng các biện pháp cần thiết nhằm để khắc phục thiệt hại.
Theo đó, bên bán trong hợp đồng mua bán tài sản họ sẽ được giảm mức bồi thường thiệt hại nếu như bên mua không áp dụng những biện pháp cần thiết mà trong khả năng cho phép nhằm để ngăn chặn, hạn chế các thiệt hại hoặc các thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của bên mua.
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Tại khoản 2 Điều 585 Bộ Luật Dân sự 2015 có quy định những người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu như không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và gây ra thiệt hại quá lớn so với tình hình khả năng kinh tế của mình. Có nghĩa là khi thiệt hại thực tế xảy ra thì bên bồi thường và bên bị thiệt hại hoàn toàn có thể thoả thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường, phương thức bồi thường. Nếu như các bên không thoả thuận được việc giải quyết bồi thường thì việc bồi thường sẽ phải tuân theo các quy định của pháp luật. Tuy nhiên, người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại họ có thể được giảm mức bồi thường, nếu như họ không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và gây ra các thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của mình.
Để được giảm mức bồi thường thiệt hại cần có hai điều kiện sau:
- Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại không có lỗi hoặc có lỗi vô ý. Tức là người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại không lường trước được hành vi của mình sẽ gây ra thiệt hại cho chủ thể khác
- Thiệt hại xảy ra quá lớn so với khả năng kinh tế của người chịu trách nhiệm bồi thường. Điều này có nghĩa là xét tại thời điểm bồi thường cũng như trong tương lai thì người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại không có khả năng kinh tế để bồi thường phần lớn hay toàn bộ thiệt hại mà mình đã gây ra. Đây là một quy định mang tính nhân văn cũng như mang tính hỗ trợ cao cho việc thực thi pháp luật.
Nguyên tắc chung về bồi thường thiệt hại
Theo Điều 585 Bộ luật Dân sự 2015 quy định nguyên tắc bồi thường thiệt hại cụ thể:
– Thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
– Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của mình.
– Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì bên bị thiệt hại hoặc bên gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường.
– Khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra.
– Bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường nếu thiệt hại xảy ra do không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại cho chính mình.
Theo đó, Điều 585 nêu trên có quy định về việc giảm mức bồi thường của một cá nhân khi người đó phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Thông tin liên hệ
Trên đây là nội dung liên quan đến vấn đề Điều kiện để được giảm mức bồi thường thiệt hại của Luật sư Hồ Chí Minh. Nếu quý khách hàng đang có bất kỳ băn khoăn hay thắc mắc đến dịch vụ pháp lý như thành lập công ty cần được giải đáp, các Luật sư, luật gia chuyên môn sẽ tư vấn, giúp đỡ tận tình, hãy gọi cho chúng tôi qua số hotline 0833102102 để được tư vấn nhanh chóng, hiệu quả.
Mời bạn xem thêm
- Mức bồi thường khi gây tai nạn giao thông chết người
- Dịch vụ tư vấn thủ tục bồi thường thu hồi đất tại Hồ Chí Minh
- Thời hạn chi trả tiền bồi thường, tái định cư năm 2022
Câu hỏi thường gặp
Khi không đủ khả năng bồi thường thiệt hại, nếu muốn giảm mức bồi thường thì người gây thiệt hại cần thực hiện 02 cách sau đây:
– Phải thương lượng được với bên bị thiệt hại về việc giảm mức bồi thường;
– Đề nghị Tòa án thay đổi mức bồi thường nếu thiệt hại quá lớn so với tình hình kinh tế và bản thân không có lỗi hoặc có lỗi do vô ý; do tình hình thực tế không còn phù hợp với mức bồi thường hoặc do bên bị thiệt hại cũng có lỗi.
Căn cứ Điều 591 Bộ Luật Dân sự 2015 quy định về thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm như sau:
“Điều 591. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm:
Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm:
a) Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm theo quy định tại Điều 590 của Bộ luật này;
b) Chi phí hợp lý cho việc mai táng;
c) Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng;
d) Thiệt hại khác do luật quy định.
Ngoài việc phải bồi thường thiệt hại theo các thiệt hại được liệt kê ở trên thì người gây tai nạn phải chịu trách nhiệm bồi thường thêm một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người sau đây:
– Tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại; nếu không có những người này thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng; người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền này.
Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần cũng do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có tính mạng bị xâm phạm không quá 100 lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định; (hiện nay là 1.490.000 x 100 = 149.000.000 đồng).
Như vậy theo đó, một người có lỗi xâm phạm tính mạng của người khác, dẫn đến việc người đó tử vong thì sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại với các chi phí được quy định tại khoản 1 Điều 591 nêu trên.