Các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được hiểu là các quan hệ xoay quanh những yếu tố chủ thể là người nước ngoài hoặc những sự kiện pháp lý xảy ra tại nước ngoài,… Trong bối cảnh hội nhập toàn cầu hiện nay, các quan hệ có yếu tố nước ngoài ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp. Việc xác định thế nào là quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài và xác định pháp luật áp dụng nhằm đảm bảo quyền và lợi ích cho các chủ thể tham gia. Vậy theo quy định, Cách xác định pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài như thế nào? Giao dịch dân sự của công dân Việt Nam khi nào được xem là quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài? Trường hợp nào không áp dụng pháp luật nước ngoài đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài? Tất cả những câu hỏi này sẽ được Luật sư Hồ Chí Minh giải đáp thông qua bài viết dưới đây, mời quý bạn đọc cùng tham khảo nhé. Mời quý bạn đọc cùng theo dõi nhé.
Căn cứ pháp lý
- Bộ luật Dân sự 2015
Thế nào là quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài?
Theo khoản 2 Điều 663 Bộ luật Dân sự 2015, quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ dân sự thuộc một trong các trường hợp sau đây:
– Có ít nhất một trong các bên tham gia là cá nhân, pháp nhân nước ngoài;
– Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng việc xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra tại nước ngoài;
– Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng đối tượng của quan hệ dân sự đó ở nước ngoài.
Giao dịch dân sự của công dân Việt Nam khi nào được xem là quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài?
Căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 663 Bộ luật Dân sự 2015 như sau:
“2. Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ dân sự thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Có ít nhất một trong các bên tham gia là cá nhân, pháp nhân nước ngoài;
b) Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng việc xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra tại nước ngoài;
c) Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng đối tượng của quan hệ dân sự đó ở nước ngoài.”
Có thể hiểu, một quan hệ dân sự được coi là có yếu tố nước ngoài khi nó đáp ứng một trong các điều kiện sau:
- Về chủ thể: Có ít nhất một trong các bên tham gia là cá nhân, pháp nhân nước ngoài.
- Về sự kiện pháp lý: Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng việc xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra tại nước ngoài.
- Về khách thể: Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng đối tượng của quan hệ dân sự đó ở nước ngoài.
Như vậy, theo quy định trên giao dịch dân sự của công dân Việt Nam nhưng việc xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra tại nước ngoài hoặc đối tượng của quan hệ dân sự đó ở nước ngoài thì giao dịch dân sự đó được xem là quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.
Cách xác định pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài
Các bên khi tham gia có quyền lựa chọn áp dụng hệ thống pháp luật nào. Quyền lựa chọn pháp luật của các chủ thể có yếu tố nước ngoài được quy định trong Bộ luật dân sự năm 2015. Xuất phát từ đặc điểm của quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là sự tham gia của hai hay nhiều hệ thống pháp luật. Và mỗi quốc gia trên thế giới có hệ thống pháp luật riêng của mình, điều này là do điều kiện phát triển kinh tế xã hội, từ quan điểm chính trị, phong tục tập quan…
Do đó, pháp luật của các nước không hoàn toàn giống nhau, thường có sự khác nhau khi giải quyết những vấn đề cụ thể, vì vậy, việc áp dụng các hệ thống pháp luật khác nhau sẽ mang lại hệ quả pháp lý khác nhau.
Trong khoa học tư pháp quốc tế, hiện tượng xung đột pháp luật xảy ra khi hai hay nhiều hệ thống pháp luật đồng thời có thể được áp dụng để điều chỉnh một quan hệ dân sự. Và cần phải lựa chọn quan hệ một trong các hệ thống pháp luật đó để giải quyết các quan hệ pháp luật trên. Nhưng việc lựa chọn luật phải dựa trên những nguyên tắc nhất định, không thể tùy tiện. Việc lựa chọn này không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của Tòa án, cũng không phụ thuộc vào ý muốn của các bên. Pháp luật Việt Nam cũng như các nước khác trên thế giới về tư pháp quốc tế ghi nhận hai phương pháp điều chỉnh, đó là: Phương pháp xung đột và phương pháp thực chất.
Phương pháp xung đột
Phương pháp xung đột là phương pháp sử dụng các quy phạm xung đột để giải quyết các xung đột pháp luật. Khi không có quy phạm thực chất thống nhất để điều chỉnh quan hệ, các cơ quan có thẩm quyền tìm đến quy phạm xung đột.
Đây là các loại quy phạm pháp luật đặc biệt, nó không quy định quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ, không quy định hình thức và biện pháp chế tài có thể được áp dụng với các bên vi phạm. Nhiệm vụ của quy phạm xung đột chỉ để xác định hệ thống pháp luật của quốc gia nào sẽ được áp dụng để điều chỉnh quan hệ, còn bản thân quan hệ chưa được giải quyết, muốn áp dụng được thì cơ quan có thẩm quyền phải căn cứ vào quy phạm xung đột, áp dụng hệ thống pháp luật mà quy phạm xung đột dẫn chiếu tới. Từ đó căn cứ vào các quy định thực định trong hệ thống pháp luật dẫn chiếu tới để giải quyết.
Nhìn chung, phương pháp xung đột giúp cho việc giải quyết các vấn đề dân sự có yếu tố nước ngoài một cách thuận lợi, dễ dàng hơn. Qua đó, tránh được những tranh chấp giữa các quốc gia, gây bất ổn đến quan hệ giữa các nước với nhau, quan trọng nhất là điều hòa được lợi ích giữa các quốc gia.
Tuy nhiên, do tính chất đặc thù và riêng biệt của quy phạm xung đột mà vẫn có những trường hợp Tòa án không chọn được luật thực chất để áp dụng bởi chưa có quy phạm xung đột trong lĩnh vực đó. Lúc này Tòa án cần xem xét hệ thống luật pháp của nước mình để tìm ra các quy định cần thiết để giải quyết vụ việc.
Phương pháp thực chất
Phương pháp thực chất là phương pháp mà nhà nước xây dựng hoặc công nhận các quy phạm luật nội dung, trực tiếp điều chỉnh các quan hệ của tư pháp quốc tế. Phương pháp được xây dựng trên cơ sở hệ thống các quy phạm thực chất trực tiếp giải quyết các quan hệ dân sự quốc tế, điều này có nghĩa là nó trực tiếp phân định quyền và nghĩa vụ giữa các bên tham gia quan hệ.
Xuất phát từ việc các quan hệ tư pháp quốc tế là các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài, nên các quan hệ này luôn có sự liên quan đến hai hay nhiều hệ thống pháp luật khác nhau. Mà bản thân các hệ thống pháp luật luôn tồn tại sẵn các yếu tố tạo nên sự khác biệt. Do đó, để giải quyết các loại quan hệ phức tạp này bằng một quy phạm quy định rõ quyền và nghĩa vụ cụ thể của các bên tham gia quan hệ, vẫn đảm bảo sự chấp nhận của hai hay nhiều hệ thống pháp luật khác nhau thì gấn như các quy phạm thực chất thống nhất này phải là kết quả của quá trình đàm phán, thương lượng giữa các quốc gia, và đó chính là điều ước quốc tế. Có thể nói quy phạm thực chất thống nhất chỉ tồn tại trong điều ước quốc tế.
Nhìn chung việc sử dụng phương pháp thực chất chính là việc các cơ quan có thẩm quyền giải quyết cũng như các bên tham gia quan hệ Tư pháp quốc tế sẽ chiếu theo các quy phạm thực chất đã được quy định sẵn trong các điều ước quốc tế hoặc đã được quy định trong luật quốc gia để chiếu xem xét và giải quyết các xung đột. Điều này có nghĩa là sẽ trực tiếp áp dụng quy phạm đó để giải quyết mà loại trừ việc phải chọn luật và áp dụng luật nước ngoài.
Phạm vi pháp luật được dẫn chiếu đến để áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài
- Pháp luật được dẫn chiếu đến bao gồm quy định về xác định pháp luật áp dụng và quy định về quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ dân sự, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 668 Bộ luật Dân sự 2015.
- Trường hợp dẫn chiếu đến pháp luật Việt Nam thì quy định của pháp luật Việt Nam về quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ dân sự được áp dụng.
- Trường hợp dẫn chiếu đến pháp luật của nước thứ ba thì quy định của pháp luật nước thứ ba về quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ dân sự được áp dụng.
- Trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 664 của Bộ luật Dân sự 2015 thì pháp luật mà các bên lựa chọn là quy định về quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ dân sự, không bao gồm quy định về xác định pháp luật áp dụng.
Trường hợp nào không áp dụng pháp luật nước ngoài đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài?
Theo quy định tại Điều 670 Bộ luật Dân sự 2015 như sau:
“1. Pháp luật nước ngoài được dẫn chiếu đến không được áp dụng trong trường hợp sau đây:
a) Hậu quả của việc áp dụng pháp luật nước ngoài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam;
b) Nội dung của pháp luật nước ngoài không xác định được mặc dù đã áp dụng các biện pháp cần thiết theo quy định của pháp luật tố tụng.
- Trường hợp pháp luật nước ngoài không được áp dụng theo quy định tại khoản 1 Điều này thì pháp luật Việt Nam được áp dụng.”
Như vậy, những trường hợp sau đây sẽ không áp dụng pháp luật nước ngoài được dẫn chiếu đến:
- Hậu quả của việc áp dụng pháp luật nước ngoài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam;
- Nội dung của pháp luật nước ngoài không xác định được mặc dù đã áp dụng các biện pháp cần thiết theo quy định của pháp luật tố tụng.
Trong trường hợp pháp luật nước ngoài không được áp dụng theo quy định trên thì pháp luật Việt Nam sẽ được áp dụng.
Mời bạn xem thêm
- Mẫu quyết định chấm dứt hợp đồng lao động tại Hồ Chí Minh
- Sử dụng biển số xe giả bị xử lý như thế nào?
- Thủ tục nhận tiền hỗ trợ cho lao động mất việc tại Hồ Chí Minh
Thông tin liên hệ
Vấn đề “Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài” đã được chúng tôi cung cấp qua thông tin bài viết trên. Luật sư Hồ Chí Minh luôn có sự hỗ trợ nhiệt tình từ các chuyên viên tư vấn pháp lý, quý khách hàng có vướng mắc hoặc nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý liên quan như là Bồi thường thu hồi đất, vui lòng liên hệ đến hotline 0833.102.102 . Chúng tôi sẽ giải quyết các khúc mắc của khách hàng, làm các dịch vụ một cách nhanh chóng, dễ dàng, thuận tiện.
Câu hỏi thường gặp
Căn cứ quy định tại khoản 3 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 có quy định như sau: “Những tranh chấp, yêu cầu quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này mà có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án, cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều này.”
Theo đó trường hợp quy định tại khoản 4 là hủy việc kết hôn trái pháp luật, giải quyết việc ly hôn, các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, cha mẹ và con, về nhận cha, mẹ, con, nuôi con nuôi và giám hộ giữa công dân Việt Nam cư trú ở khu vực biên giới với công dân của nước láng giềng cùng cư trú ở khu vực biên giới với Việt Nam.
Đồng thời theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 37 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 thì những tranh chấp, yêu cầu tại khoản 3 nêu trên sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp tỉnh.
Thời hiệu đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được xác định theo pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự đó.
– Trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia thì quy định của điều ước quốc tế đó được áp dụng.
– Trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy định của Phần này và luật khác về pháp luật áp dụng thì quy định của điều ước quốc tế đó được áp dụng.