Tình cảm cha con là một thứ tình cảm thiêng liêng cao quý giữa những người thân ruột thịt với nhau. Khái niệm quyền làm cha không chỉ là một thuật ngữ đơn thuần mà còn chứa đựng ý nghĩa quan trọng về trách nhiệm chăm sóc và nuôi dưỡng con cái của một người cha. Tuy nhiên, thực tế có nhiều trường hợp con cái bất hiếu khiến cha mẹ phiền lòng nên muốn từ bỏ quyền làm cha. Vậy cụ thể, theo quy định hiện hành, Thủ tục từ bỏ quyền làm cha tại TP.HCM thực hiện như thế nào? Điều kiện từ chối nhận con khi phát hiện không phải con ruột là gì? Hạn chế quyền làm cha đối với con chưa thành niên trong trường hợp nào và ai có quyền yêu cầu Tòa án? Sau đây, Luật sư Hồ Chí Minh sẽ giúp quý độc giả giải đáp những vấn đề này và cung cấp những quy định pháp luật liên quan. Mời quý bạn đọc cùng theo dõi nhé.
Điều kiện từ chối nhận con khi phát hiện không phải con ruột
Thực tế, có những bậc cha mẹ khi có dấu hiệu nghi ngờ đứa con trong thời kỳ hôn nhân không phải con của mình và muốn thực hiện thủ tục từ chối nhận con. Tuy nhiên, việc nắm rõ về quy định của pháp luật của nhiều người còn ít nên thường việc từ chối nhận con thường gây nhiều khó khăn. Vậy cụ thể, theo quy định hiện hành, điều kiện từ chối nhận con khi phát hiện không phải con ruột là gì, quý bạn đọc hãy cùng tìm hiểu qua nội dung dưới đây nhé:
Để được xác định là cha mẹ con của nhau, khoản 1 Điều 88 Luật Hôn nhân và Gia đình nêu rõ:
Điều 88. Xác định cha, mẹ
- Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng.
Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân được coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân.
Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con chung của vợ chồng.
Căn cứ quy định này, có thể thấy, quan hệ cha mẹ con được pháp luật công nhận không phụ thuộc vào tình trạng hôn nhân của cha mẹ mà có thể được xác định khi con sinh ra trong hoặc trước khi đăng ký kết hôn. Cụ thể, được xem là con chung của vợ chồng trong trường hợp:
– Sinh ra trong thời kỳ hôn nhân của cha mẹ.
– Do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân thì dù sau đó có ly hôn đây vẫn được xác định là con chung của vợ chồng.
– Sau khi giải quyết xong việc ly hôn (đã có bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án), người vợ sinh con trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân. Trường hợp này được xem là vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân. Do đó, khi con sinh ra sẽ vẫn được xem là con chung của vợ chồng.
– Trước ngày đăng ký kết hôn mà sinh con thì sau khi đăng ký kết hôn, cha mẹ thừa nhận đây là con chung.
Do đó, nếu thuộc một trong bốn trường hợp nêu trên, người con sinh ra sẽ được coi là con chung của vợ chồng. Khi đó, cha mẹ có quyền và nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, yêu thương, tôn trọng ý kiến của con. Đồng thời, người con cũng phải kính trọng, biết ơn, hiếu thảo, phụng dưỡng cha mẹ…
Tuy nhiên, điều đó không đồng nghĩa, trong bất cứ trường hợp nào nếu thuộc một trong bốn trường hợp nêu trên và đáp ứng được đủ điều kiện của từng trường hợp đều được xem là con chung của hai vợ chồng bởi theo khoản 2 Điều 88 Luật Hôn nhân và Gia đình có khẳng định:
2. Trong trường hợp cha, mẹ không thừa nhận con thì phải có chứng cứ và phải được Tòa án xác định.
Do đó, nếu không muốn thừa nhận con thì cha mẹ có thể gửi yêu cầu đến Toà án và cung cấp chứng cứ để Toà án xác nhận người con không phải con chung của hai vợ chồng.
Đây cũng là quy định được hướng dẫn tại khoản b Điều 5 của Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP:
b. Theo quy định tại khoản 2 Điều 63 và Điều 64, khi có người yêu cầu Toà án xác định một người nào đó là con của họ hay không phải là con của họ thì phải có chứng cứ; do đó về nguyên tắc người có yêu cầu phải cung cấp chứng cứ. Trong trường hợp cần thiết thì phải giám định gien. Người có yêu cầu giám định gien phải nộp lệ phí giám định gien.
Như vậy, căn cứ hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao này, khi một trong hai vợ chồng không muốn thừa nhận con chung thì phải cung cấp được bằng chứng cho thấy người con không phải con họ. Thông thường, bằng chứng trong trường hợp này sẽ là xét nghiệm AND.
Nói tóm lại, điều kiện để từ chối nhận con khi phát hiện con không phải con ruột thì phải cung cấp được chứng cứ chứng minh việc này.
Thủ tục từ bỏ quyền làm cha tại TP.HCM
Tình cảm ruột thịt, mối quan hệ nhân thân giũa cha mẹ và con cái là một loại quan hệ thiêng liêng, được hình thành ngay từ khi đứa trẻ sinh ra. Tuy nhiên, thực tế vì nhiều lý do khách quan hay chủ quan mà người bố mong muốn từ bỏ quyền làm cha đối với con cái của mình. Vậy khi đó, căn cứ theo quy định của pháp luật hiện hành, thủ tục từ bỏ quyền làm cha tại TP.HCM thực hiện như thế nào, quý bạn đọc hãy cùng tìm hiểu qua nội dung dưới đây nhé:
Xoá tên cha trong giấy khai sinh được hiểu là việc bỏ hẳn tên cha trong giấy khai sinh của người con. Hiện nay, có hai trường hợp được cho phép xóa tên cha khỏi giấy khai sinh của con như sau:
Trường hợp 1: Con được nhận làm con nuôi, cha mẹ nuôi thay đổi tên cha mẹ trong giấy khai sinh của con sau khi đã hoàn thành thủ tục nhận nuôi con nuôi.
Cụ thể, khoản 10 Điều 4 Luật Hộ tịch năm 2014 định nghĩa như sau: “Thay đổi hộ tịch là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký thay đổi những thông tin hộ tịch của cá nhân khi có lý do chính đáng theo quy định của pháp luật dân sự hoặc thay đổi thông tin về cha, mẹ trong nội dung khai sinh đã đăng ký theo quy định của pháp luật.”
Khoản 2 Điều 26 Luật Hộ tịch quy định về trường hợp thay đổi thông tin hộ tịch khi nhận nuôi con nuôi. Trong đó, về trường hợp thay đổi thông tin cha, mẹ trong nội dung khai sinh, quy định chỉ được thay đổi thông tin về người cha khi người con được nhận làm con nuôi của người khác và cha mẹ nuôi đổi tên cha trong giấy khai sinh.
Trường hợp 2: Cha không thừa nhận con và được Tòa án xác định
Khoản 2 Điều 88 Luật Hôn nhân và Gia đình quy định: “Trong trường hợp cha, mẹ không thừa nhận con thì phải có chứng cứ và phải được Tòa án xác định.”
Như vậy, chỉ khi được Toà án công nhận bằng bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật về việc không xác định cha, mẹ con thì có thể thực hiện việc xoá tên cha trong giấy khai sinh.
Để thực hiện thủ tục không xác nhận cha con, cha/mẹ thực hiện thủ tục khởi kiện tòa án không công nhận cha con. Người khởi kiện cần nộp đến Tòa án nhân dân có thẩm quyền những hồ sơ sau:
– Đơn khởi kiện:
– Giấy tờ nhân thân của người khởi kiện, người bị kiện: Chứng minh thư nhân dân, thẻ căn cước công dân, sổ hộ khẩu/ văn bản xác minh thông tin cư trú (thường áp dụng với người bị kiện khi người khởi kiện không có tài liệu chứng minh địa chỉ cư trú của người bị kiện)
– Giấy khai sinh của con;
– Căn cứ chứng minh không công nhận quan hệ cha con: Thông thường là giấy xét nghiệp ADN xác minh quan hệ huyết thống;
– Giấy đăng ký kết hôn của vợ chồng
Trường hợp sau khi thụ lý, Tòa án xác định có căn cứ chấp nhận yêu cầu không công nhận cha con của nguyên đơn, Tòa án sẽ ban hành bản án công nhận yêu cầu. Sau khi có quyết định/ bản án của Tòa án, cha/mẹ thực hiện thủ tục xóa bỏ tên cha trong giấy khai sinh của con tại UBND cấp xã nơi đăng ký khai sinh hoặc UBND cấp huyên (đối với trường hợp có yếu tố nước ngoài).
Hạn chế quyền làm cha đối với con chưa thành niên trong trường hợp nào và ai có quyền yêu cầu Tòa án?
Trong quá trình trưởng thành của nhiều người, cha mẹ đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Cha mẹ luôn có những quyền cũng như trách nhiệm và nghĩa vụ và không thể thay đổi đối với con của mình và điều này đã được pháp luật quy định rõ ràng. Tuy nhiên, trong một số trường hợp quyền của cha mẹ đối với con cái sẽ bị hạn chế. Vậy cụ thể, theo quy định hiện hành, hạn chế quyền làm cha đối với con chưa thành niên trong trường hợp nào và ai có quyền yêu cầu Tòa án, quý bạn đọc hãy cùng tìm hiểu qua nội dung dưới đây nhé:
Căn cứ theo quy định tại Điều 85 và khoản 1 Điều 86 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định như sau:
Điều 85. Hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên
1. Cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên trong các trường hợp sau đây:
a) Bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con với lỗi cố ý hoặc có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con;
b) Phá tán tài sản của con;
c) Có lối sống đồi trụy;
d) Xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
2. Căn cứ vào từng trường hợp cụ thể, Tòa án có thể tự mình hoặc theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức quy định tại Điều 86 của Luật này ra quyết định không cho cha, mẹ trông nom, chăm sóc, giáo dục con, quản lý tài sản riêng của con hoặc đại diện theo pháp luật cho con trong thời hạn từ 01 năm đến 05 năm. Tòa án có thể xem xét việc rút ngắn thời hạn này.
Điều 86. Người có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên
1. Cha, mẹ, người giám hộ của con chưa thành niên, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên.
2. Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên:
a) Người thân thích;
b) Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình;
c) Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em;
d) Hội liên hiệp phụ nữ.
3. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác khi phát hiện cha, mẹ có hành vi vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 85 của Luật này có quyền đề nghị cơ quan, tổ chức quy định tại các điểm b, c và d khoản 2 Điều này yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên.
Trong trường hợp chồng cũ của bạn lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì bạn có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
Nếu chồng cũ bạn thuộc một trong các trường hợp: (1) Bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con với lỗi cố ý hoặc có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con; (2) Phá tán tài sản của con; (3) Có lối sống đồi trụy; (4) Xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội thì bạn có thể yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha đối với con bạn theo quy định tại Điều 85, khoản 1 Điều 86 Luật Hôn nhân và gia đình 2014.
Mời bạn xem thêm
- Mẫu quyết định chấm dứt hợp đồng lao động tại Hồ Chí Minh
- Sử dụng biển số xe giả bị xử lý như thế nào?
- Thủ tục nhận tiền hỗ trợ cho lao động mất việc tại Hồ Chí Minh
Thông tin liên hệ
Trên đây là nội dung liên quan đến vấn đề “Thủ tục từ bỏ quyền làm cha” . Nếu quý khách hàng đang có bất kỳ băn khoăn hay thắc mắc đến dịch vụ pháp lý cần được giải đáp, các Luật sư, luật gia chuyên môn sẽ tư vấn, giúp đỡ tận tình, hãy gọi cho chúng tôi qua số hotline để được tư vấn nhanh chóng, hiệu quả.
Câu hỏi thường gặp
Khoản 2 Điều 68 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về việc bảo vệ quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con như sau:
– Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con theo quy định tại Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan được tôn trọng và bảo vệ.
– Con sinh ra không phụ thuộc vào tình trạng hôn nhân của cha mẹ đều có quyền và nghĩa vụ như nhau đối với cha mẹ của mình được quy định tại Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
– Giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi có các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con được quy định tại Luật này, Luật nuôi con nuôi, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
– Mọi thỏa thuận của cha mẹ, con liên quan đến quan hệ nhân thân, tài sản thì không được làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự hoặc con không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình, cha mẹ mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
Như vậy, bạn không thể yêu cầu chồng bạn từ bỏ quyền làm cha hoặc tước quyền của họ. Kể cả trong trường hơp hai bạn ly hôn thì cũng sẽ không làm ảnh hưởng đến mối quan hệ cha con. Sau khi ly hôn người cha vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con mà bạn không được cản trở trừ trường hợp yêu cầu toà án hạn chế và không cho phép cha cháu bé được chấp thuận.
Có thể thấy, quyền làm cha hay quan hệ cha con đẻ, mẹ con đẻ là quan hệ nhân thân của mỗi cá nhân mà không ai có thể tước được.
Tuy không thể tước quyền làm cha nhưng theo quy định tại Điều 85 Luật Hôn nhân và Gia đình, người mẹ có thể yêu cầu Toà án hạn chế quyền của cha với con chưa thành niên nếu thuộc các trường hợp sau đây:
– Bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con hoặc vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
– phá tán tài sản của con.
– Có lối sống đồi truỵ.
– Xúi giục, ép con làm việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.