Chủ thể có tài sản thuộc quyền sở hữu của mình được pháp luật trao cho quyền sở hữu đối với tài sản, trong đó quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt. Vì vậy, khi mọt chủ thể có tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của mình thì đương nhiên được pháp luật công nhận và trao cho quyền định đoạt với tài sản đó. Tuy nhiên hiện nay nhiều người vẫn chưa nắm rõ khái niệm quyền định đoạt tài sản là gì? Quy định về quyền định đoạt hiện nay như thế nào? Quyền định đoạt tài sản có bị hạn chế không? Sau đây, Luật sư Hồ Chí Minh sẽ giúp quý độc giả giải đáp những vấn đề này và cung cấp những quy định pháp luật liên quan. Mời quý bạn đọc cùng theo dõi nhé.
Quyền định đoạt tài sản là gì?
Mỗi cá nhân và tổ chức, cơ quan… đều có những tài sản riêng, thuộc quyền sở hữu của họ, trong đó họ có các quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối với tài sản đó. Quyền định đoạt tài sản là một trong ba quyền năng của mà chủ thể sở hữu tài sản có. Khi là chủ sở hữu tài sản thì chủ thể có quyền định đoạt tài sản. Tuy nhiên khái niệm Quyền định đoạt tài sản là gì không phải ai cũng nắm rõ. Vậy pháp luật nước ta định nghĩa khái niệm thuật ngữ này như thế nào, mời bạn đọc cùng theo dõi nhé:
Tại Điều 158 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về quyền sở hữu như sau:
Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của luật.
Như vậy, quyền định đoạt tài sản là một loại quyền sở hữu.
Căn cứ Điều 192 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về Quyền định đoạt như sau:
Quyền định đoạt là quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản, từ bỏ quyền sở hữu, tiêu dùng hoặc tiêu hủy tài sản.
Quy định về quyền định đoạt hiện nay như thế nào?
Quyền định đoạt dù là quyền của chủ thể đối với tài sản của mình. Để đảm bảo việc các chủ thể thực hiện quyền định đoạt không gây ảnh hưởng đến lợi ích của chủ thể khác, ảnh hưởng đến lợi ích chung của quốc gia, dân tộc, đảm bảo ổn định trong giao lưu dân sự, pháp luật nước ta đã ban hành một số quy định để điều chỉnh vấn đề này. Vậy cụ thể, pháp luật nước ta hiện nay quy định về quyền định đoạt như thế nào, chúng ta hãy cùng tìm hiểu qua nội dung sau đây nhé:
Điều kiện thực hiện quyền định đoạt
Tại Điều 193 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về điều kiện thực hiện quyền định đoạt như sau:
Việc định đoạt tài sản phải do người có năng lực hành vi dân sự thực hiện không trái quy định của pháp luật.
Trường hợp pháp luật có quy định trình tự, thủ tục định đoạt tài sản thì phải tuân theo trình tự, thủ tục đó.
Chủ thể có quyền định đoạt tài sản:
Pháp luật hiện hành, mà cụ thể là Bộ luật dân sự năm 2015 quy định cho cho chủ sở hữu và người không phải là chủ sở hữu có quyền định đoạt tài sản
Thứ nhất: Bộ luật dân sự năm 2015 quy định cho chủ sở hữu có quyền bán, trao đổi, tặng cho, cho vay, để thừa kế, từ bỏ hoặc thực hiện các hình thức định đoạt khác phù hợp với quy định của pháp luật. Như vậy, pháp luật đã trao quyền rất lớn cho chủ sở hữu khi thực hiện quyền định đoạt tài sản.
Thứ hai: Quyền định đoạt của người không phải là chủ sở hữu
Người không phải chủ sở hữu có quyền định đoạt tài sản sẽ có những hạn chế và trong những trường hợp nhất định.
“Người không phải là chủ sở hữu tài sản chỉ có quyền định đoạt tài sản theo ủy quyền của chủ sở hữu hoặc theo quy định của pháp luật.
Người được chủ sở hữu ủy quyền định đoạt tài sản phải thực hiện việc định đoạt phù hợp với ý chí, lợi ích của chủ sở hữu” ( Điều 198 Bộ luật dân sự năm 2015)
4. Những hạn chế của quyền định đoạt tài sản (Điều 196 Bộ luật dân sự năm 2015)
– Quyền định đoạt chỉ bị hạn chế trong trường hợp do pháp luật quy định
– Khi tài sản đem bán là di tích lịch sử, văn hóa thì Nhà nước có quyền ưu tiên mua.
Trong trường hợp pháp nhân, cá nhân, chủ thể khác có quyền ưu tiên mua đối với tài sản nhất định theo quy định của pháp luật thì khi bán tài sản, chủ sở hữu phải dành quyền ưu tiên mua cho các chủ thể đó.
Ví dụ: Chuyển nhượng phần vốn góp của thành viên công ty TNHH hai thành viên có những hạn chế sau:
“Trừ trường hợp quy định tại khoản 6 Điều 45 của Luật này, thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên có quyền chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ phần vốn góp của mình cho người khác theo quy định sau đây:
1. Phải chào bán phần vốn đó cho các thành viên còn lại theo tỷ lệ tương ứng với phần vốn góp của họ trong công ty với cùng điều kiện;
2. Chỉ được chuyển nhượng cho người không phải là thành viên nếu các thành viên còn lại của công ty không mua hoặc không mua hết trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày chào bán” ( Điều 44 Luật Doanh nghiệp 2020).
hay dựa trên các quy định về ủy quyền định đoạt tài sản như tạo điều kiện thuận lợi cho chủ sở hữu khi định đoạt tài sản, BLDS 2015 dã quy đinh việc ủy quyền định đoạt. và đối với việc định đoạt này thì Chủ sở hữu có thể ủy quyền cho người khác định đoạt tài sản, và người được ủy quyền phải thực hiện việc định đoạt theo phương pháp, cách thức phù hợp với ý chí và lợi ích của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật.
Và theo đó, các chủ thể vì lợi ích chung của xã hội và để bảo đảm ổn định giao lưu dân sự trong những trường hợp nhất định,
Tại Điều 196 BLDS 2015 còn quy định việc hạn chế quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu. Cụ thể đó là những trường hợp tài sản bị kê biên, hoặc các trường hợp mà tài sản đã được đem đi làm vật bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ. hay Nếu các quan hệ đặt cọc, thế chặp chấm dứt, quyết định kê biên tài sản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền không còn hiệu lực, thì quyên đinh đoạt của chủ sở hữu được khôi phục và căn cứ dựa trên thực tế có những trường hợp tuy không phải là chủ sở hữu, và chủ sở hữu không uỷ quyền, đối với việc định đoạt có thể không theo ý chí của chủ sở hữu nhưng theo quy định pháp luật những người đó vẫn có quyền.
Quyền định đoạt đối với tài sản chung
Căn cứ Điều 218 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về định đoạt tài sản chung như sau:
– Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền định đoạt phần quyền sở hữu của mình.
– Việc định đoạt tài sản chung hợp nhất được thực hiện theo thỏa thuận của các chủ sở hữu chung hoặc theo quy định của pháp luật.
– Trường hợp một chủ sở hữu chung theo phần bán phần quyền sở hữu của mình thì chủ sở hữu chung khác được quyền ưu tiên mua.
Trong thời hạn 03 tháng đối với tài sản chung là bất động sản, 01 tháng đối với tài sản chung là động sản, kể từ ngày các chủ sở hữu chung khác nhận được thông báo về việc bán và các điều kiện bán mà không có chủ sở hữu chung nào mua thì chủ sở hữu đó được quyền bán cho người khác.
Việc thông báo phải được thể hiện bằng văn bản và các điều kiện bán cho chủ sở hữu chung khác phải giống như điều kiện bán cho người không phải là chủ sở hữu chung.
Trường hợp bán phần quyền sở hữu mà có sự vi phạm về quyền ưu tiên mua thì trong thời hạn 03 tháng, kể từ ngày phát hiện có sự vi phạm về quyền ưu tiên mua, chủ sở hữu chung theo phần trong số các chủ sở hữu chung có quyền yêu cầu Tòa án chuyển sang cho mình quyền và nghĩa vụ của người mua; bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường thiệt hại.
– Trường hợp một trong các chủ sở hữu chung đối với bất động sản từ bỏ phần quyền sở hữu của mình hoặc khi người này chết mà không có người thừa kế thì phần quyền sở hữu đó thuộc về Nhà nước, trừ trường hợp sở hữu chung của cộng đồng thì thuộc sở hữu chung của các chủ sở hữu chung còn lại.
– Trường hợp một trong các chủ sở hữu chung đối với động sản từ bỏ phần quyền sở hữu của mình hoặc khi người này chết mà không có người thừa kế thì phần quyền sở hữu đó thuộc sở hữu chung của các chủ sở hữu còn lại.
– Trường hợp tất cả các chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu của mình đối với tài sản chung thì việc xác lập quyền sở hữu được áp dụng theo quy định tại Điều 228 Bộ luật Dân sự 2015.
Quyền định đoạt tài sản có bị hạn chế không?
Quyền định đoạt là quyền mà pháp luật trao cho chủ sở hữu tài sản, bằng hành vi thực hiện việc chuyển giao quyền sở hữu tài sản, hoặc tiêu hủy tài sản tùy thuộc vào ý chí, mong muốn của chủ sở hữu. Tuy nhiên không phải chỉ có chủ sở hữu mới có quyền định đoạt tài sản, cũng như việc tự do định đoạt tài sản của chủ thể chỉ đến một giới hạn nhất định. Vậy cụ thể, liệu theo quy định của pháp luật hiện nay, quyền định đoạt tài sản có bị hạn chế không, chúng ta hãy cùng tìm hiểu nhé:
Tại Điều 196 Bộ luật dân sự 2015 có quy định:
1. Quyền định đoạt chỉ bị hạn chế trong trường hợp do luật quy định.
2. Khi tài sản đem bán là tài sản thuộc di tích lịch sử – văn hóa theo quy định của Luật di sản văn hóa thì Nhà nước có quyền ưu tiên mua.
Trường hợp cá nhân, pháp nhân có quyền ưu tiên mua đối với tài sản nhất định theo quy định của pháp luật thì khi bán tài sản, chủ sở hữu phải dành quyền ưu tiên mua cho các chủ thể đó.
Như vây, căn cứ dựa trên các Điều luật này chỉ ra nguyên tắc định đoạt đối với tài sản, đó là chủ thể có toàn quyền định đoạt tài sản theo ý mình (như chọn người nhận chuyển giao quyền sở hữu, cách thức định đoạt…) và quyền này chỉ bị hạn chế trong trường hợp luật quy định. và Để cụ thể hóa thì điều luật quy định hai trường hợp mà chủ thể phải dành ưu tiên mua cho những chủ thể này và Nhà nước có quyền ưu tiên mua khi tài sản định đoạt là di tích, lịch sử văn hóa theo quy định của Luật di sản văn hóa theo quy định của pháp luật.
Mời bạn xem thêm
- Mẫu quyết định chấm dứt hợp đồng lao động tại Hồ Chí Minh
- Sử dụng biển số xe giả bị xử lý như thế nào?
- Thủ tục nhận tiền hỗ trợ cho lao động mất việc tại Hồ Chí Minh
Thông tin liên hệ
Trên đây là nội dung liên quan đến vấn đề “Quyền định đoạt tài sản là gì?”. Nếu quý khách hàng đang có bất kỳ băn khoăn hay thắc mắc đến dịch vụ pháp lý cần được giải đáp, các Luật sư, luật gia chuyên môn sẽ tư vấn, giúp đỡ tận tình, hãy gọi cho chúng tôi qua số hotline để được tư vấn nhanh chóng, hiệu quả.
Câu hỏi thường gặp
Căn cứ Điều 194 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về quyền định đoạt của chủ sở hữu như sau:
Chủ sở hữu có quyền bán, trao đổi, tặng cho, cho vay, để thừa kế, từ bỏ quyền sở hữu, tiêu dùng, tiêu hủy hoặc thực hiện các hình thức định đoạt khác phù hợp với quy định của pháp luật đối với tài sản.
Tại Điều 195 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về quyền định đoạt của người không phải là chủ sở hữu như sau:
Người không phải là chủ sở hữu tài sản chỉ có quyền định đoạt tài sản theo ủy quyền của chủ sở hữu hoặc theo quy định của luật.